Với chung cư đầu tư xây dựng sau ngày Luật Nhà ở 2014 có hiệu lực thi hành (ngày 1/7/2015) thì Điều 100, 101 luật này đã quy định phần sở hữu riêng và phần sở hữu chung trong nhà chung cư và việc xác định diện tích sử dụng căn hộ, diện tích khác trong nhà chung cư.
Với nhà ở riêng lẻ, theo Điều 90 Luật Xây dựng ngày 18/6/2014 và Phụ lục 4 đính kèm Thông tư 15/2016 của Bộ Xây dựng hướng dẫn về cấp phép xây dựng, không yêu cầu thể hiện nội dung xác định vị trí, phần diện tích sở hữu chung, riêng trong giấy phép xây dựng.
Bên cạnh đó, quy định về việc xác lập quyền sở hữu chung tại Điều 208 Bộ luật Dân sự 2015 nêu rõ: “Quyền sở hữu chung được xác lập theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán”.
Thông tư số 23/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Cụ thể, với nhà ở riêng lẻ, trường hợp căn hộ thuộc sở hữu của một chủ thì hình thức sở hữu ghi là "sở hữu riêng"; trường hợp căn hộ thuộc sở hữu chung của nhiều chủ thì ghi là "sở hữu chung".
Nếu căn hộ có phần sở hữu riêng và phần sở hữu chung thì ghi lần lượt từng hình thức, ví dụ như “Sở hữu riêng 50m2, sở hữu chung 20m2”.
Văn bản của Sở Xây dựng TP.HCM cũng nêu rõ: “Sở Xây dựng đề nghị Sở Tư pháp, Sở Tài nguyên và Môi trường đối chiếu các trường hợp cụ thể từng thời điểm phê duyệt dự án, thời điểm ký kết hợp đồng mua bán căn hộ với quy định của pháp luật để thực hiện đảm bảo theo quy định, tránh phát sinh khiếu nại, khiếu kiện sau khi cấp sổ hồng”.
Khánh Trang